Di sản văn hóa vật thể Cố_đô_Huế

Quá trình công nhận của UNESCO

Năm 1951, Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại gia nhập UNESCO.[12] Các năm 19711973, UNESCO 2 lần cử chuyên gia Brown Morton để khảo sát về di tích triều Nguyễn và lượng định khả năng trùng tu. Năm 1974, ông Brown đệ trình lên UNESCO bản báo cáo kỹ thuật nhan đề "The Conservation of Historic Sites and Monuments of Hue". Năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức gia nhập UNESCO và sau đó 2 năm, năm 1978, UNESCO lại cử một chuyên gia tên Pierre Pichard đến khảo sát Huế một lần nữa. Sau khi về Paris, ông Pierre đệ trình lên UNESCO một bản báo cáo nhan đề "La Conservation des Monuments de Huế" (Bảo tồn Di tích Huế)[12]. Năm 1980, UNESCO cùng với Chính phủ Việt Nam đề ra kế hoạch hành động "Bảo vệ, Tu sửa và Tôn tạo di tích Huế". 1981, tại Hà Nội, ông Amadou Mahtar M'Bow tổng giám đốc UNESCO đã ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động một cuộc vận động quốc tế giúp đưa việc di tu tôn tạo Huế trở lại quỹ đạo ban đầu[10][13] rồi sau đó họ cử nhiều chuyên gia và đưa nhiều gói viện trợ nhằm hỗ trợ Việt Nam. Đến năm 1987, Việt Nam gia nhập "công ước Bảo vệ Di sản Văn Hóa và Thiên nhiên Thế giới" của UNESCO.[13]

Năm 1990, UNESCO đề nghị Chính phủ Việt Nam lập hồ sơ một số công trình kiến trúc, thiên nhiên trong đó có khu Di tích Huế.[13] Với sự hướng dẫn giúp đỡ của các chuyên gia UNESCO, trong hai năm 1992 và 1993, Trung tâm bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đã thực hiện bộ hồ sơ về Quần thể di tích Cố đô Huế nộp lên Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO (ICCROM). Tháng 3 năm 1993, một chuyên gia của ICCROM và IUCN đến Việt Nam để thẩm định giá trị của các khu vực Việt Nam nộp hồ sơ, trong đó có khu di tích Huế[14] và đến tháng 9 năm 1993, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô gửi hồ sơ bổ sung cho UNESCO. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, trong một phiên họp tại Carthagène (Colombia), Hội đồng đã ghi danh Quần thể di tích Cố đô Huế vào Danh mục Di sản Thế giới. Ngày 2 tháng 8 năm 1994, đích thân Phó Tổng Giám đốc UNESCO, ông Daniel Janicot, đến Huế trao tấm bằng chứng nhận của UNESCO cho Huế có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, ông Fédérico Mayor Zaragoza với dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".[10][14]

Cụm di tích trong kinh thành Huế

Kinh thành Huế

Bài chi tiết: Kinh thành Huế
Kỳ Đài và một đoạn thành Huế

Kinh thành Huế được vua Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến tiến hành khảo sát thực địa vào hai năm 18031804.[15] Đến mùa hè năm 1805, công trình xây dựng kinh thành bắt đầu được khởi công xây dựng[16] với địa bàn nằm trên khu vực hai chi lưu của sông Hương là Kim Long và Bạch Yến; với mặt bằng nằm trên khu vực 8 làng cổ là: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại[15]. Quá trình xây dựng kéo dài không liên tục cho đến tận năm 1823 mới cơ bản hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng với sức lao động của hàng vạn lính và dân từ khắp các tỉnh, thành trong cả nước mà chủ yếu đến từ miền Trung Việt Nam[16]. Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng gần như như hình vuông với mặt trước hơi khum hình cánh cung[17], tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc kiến trúc của dân tộc Việt Nam xuất phát từ Dịch Lýthuật Phong Thủy dựa vào các thực thể thiên nhiên để tạo các yếu tố hài hòa về Phong Thủy như núi Ngự là Tiền Án, sông Hương là Minh Đường, cồn Hến và cồn Dã Viên lần lượt là tả Thanh Long và hữu Bạch Hổ và quay mặt về hướng nam theo một quy định của sách Chu Dịch: "Vua quay mặt về phía nam để cai trị, hướng về lẽ sáng để làm việc nước"[18]. Vòng tường thành với chu vi 10571 m[17] được xây bó bằng gạch được xây dựng kiến trúc Vauban hay "thành lũy hình ngôi sao"[18] với 24 pháo đài và 10 cửa chính cùng 1 cửa phụ cùng; với một hệ thống hào nước phức tạp[16]. Sau đó, hệ thống công trình kinh thành được liên tục bổ sung tu bổ xây dựng thêm công trình mới 1836, 1839, 1842, 1844, 1846, 1848[16]... Chức năng chính của Kinh thành dùng để phòng vệ, phục vụ sinh hoạt của triều đình và nhà vua[15]. Dù chịu sự tàn phá dữ dội của bom đạn, mà đặc biệt là năm Mậu thân (1968), nhưng cụm công trình này vẫn tồn tại với đầy đủ diện mạo của nó[19].

Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Bên trong kinh thành, được giới hạn theo bản đồ thuộc các đường như sau: phía nam là đường Ông Ích Khiêm; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp; phía bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68.

Khu vực Đại Nội

Điện Thái Hoà

Hoàng ThànhTử Cấm Thành là hai không gian có liên hệ chặt chẽ với nhau với Tử Cấm Thành nằm trong lòng Hoàng Thành[20], nên thường được gọi chung là Hoàng thành hay Đại Nội. Việc xây dựng hệ thống Hoàng cung này đã được bắt đầu từ năm 1803[20], nhưng vì đòi hỏi về nơi sinh hoạt ăn ở của Hoàng gia, công trình đã được ưu tiên xây dựng từ năm 1804, trước khi Kinh thành được xây một năm[21]. Việc xây dựng tường thành được đích thân vua Gia Long trực tiếp giao cho hai Đại thần Nguyễn Văn Trương và Lê Văn Chất đứng ra đốc thúc xây dựng. Còn các công trình đền miếu, cung điện quan trọng đều do các quan lớn như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, Phan Văn Đức, Lê Công Nga chịu trách nhiệm trông coi[21]. Dưới thời vua Gia Long, hầu hết các công trình cơ bản đã hoàn tất như về thờ cúng: Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân,[22] các công trình phục vụ việc triều chính, sinh hoạt, giáo dục của quan lại, hoàng gia: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa[22]... Tới thời vua Minh Mạng, ông đã liên tục nâng cấp xây dựng hoàn chỉnh thêm nhiều công trình như cung Trường Ninh,Hiển Lâm Các, Thế Miếu, dời điện Thái Hòa ra phía trước, xây dựng Đại Cung môn, Ngọ Môn, đúc Cửu Đỉnh và nhiều công trình khác như lầu Minh Viễn, sở Thượng Thiện, Đông Các, nhà hát Duyệt Thị[22]... hoàn chỉnh diện mạo kiến trúc của Hoàng thành và Tử Cấm thành.[22] Đời vua sau đó như Thiệu Trị cũng xây dựng được thêm một số công trình như vườn Cơ Hạ, nhà hát Tịnh Quan, hoàn chỉnh nâng cấp Lục Viện và cung Trường Sanh.[23] Tám đời vua kế nghiệp tiếp theo từ Tự Đức đến Duy Tân, do tình hình đất nước khó khăn, kinh tế tài chính suy tàn sa sút,[23] họ chỉ cố gắng giữ những gì mà 3 vị vua đầu triều để lại.[24] Tới thời vua Khải ĐịnhBảo Đại, họ thực hiện một loạt cải tạo (các cửa Hoàng Thành) hoặc làm mới các công trình kiến trúc (lầu Kiến Trung, Ngự tiền Văn phòng, lầu Tứ Phương Vô Sự, lầu Tịnh Minh...) theo phong cách chịu ảnh hưởng theo phong cách phương Tây.[24] Tất cả chia ra làm 3 khu vực: đại lễ, thờ cúng, sinh hoạt, kho tàng, học tập, làm việc của quan lại và hoàng gia.[24][25]

Mặt bằng của cụm công trình này có hình chữ nhật với mặt trước mặt sau dài 622m và mặt trái mặt phải dài 604m.[21] Xung quanh tường thành của Hoàng thành là các pháo đài xây nhô ra và hệ thống tường hào bao bọc với 4 cửa để ra vào là Ngọ Môn, Hòa Bình, Hiển Nhân, Chương Đức[26]. Phần tường thành của Tử Cấm thành có hình chữ nhật mặt trước sau 324m và trái phải 290m không có hao bao bọc,[26] chỉ có duy nhất một cửa ngay tường giữa là Đại Cung môn[26] và ba cửa mặt sau là Tường Loan, Nghi Phụng[26], và Văn phòng môn mới xây sau đó[22]. Mặt trái có ba cửa Đông An, Cấm Uyển và Duyệt Thị có lẽ được trổ thời vua Bảo Đại, mặt phải có hai cửa là Tây An và Gia Tường. Tất cả bố cục đều tuân theo dịch lý, bố trí theo kiểu chặt chẽ và đối xứng từng cặp qua đường trục Ngọ Môn.[25]

Đây là khu vực bị tàn phá rất nặng nề vì bom đạn chiến tranh.[9]

Các di tích ngoài kinh thành

Lăng tẩm các vua Nguyễn

Hầu hết các vua triều Nguyễn đều xây dựng lăng mộ cho mình ngay khi còn sống vì quan điểm sống gởi thác của nhà Nho và triết lý sắc không vô thưởng của nhà Phật[27]. Các khu lăng mộ xây sẵn có hai chức năng: là nơi khi còn sống các vua thỉnh thoảng lui tới để vui chơi và là nơi chôn cất khi họ mất[27]. Tất cả các lăng đều được xây dựng, quy hoạch theo đúng triết lý phong thủy phương Đông: bất cứ lăng nào cũng tuân thủ các nguyên tắc sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ... đã làm cho các lăng này có được những kiến trúc rất đẹp và thơ mộng[27][28]. Tuy triều Nguyễn có 13 vua, nhưng vì nhiều lý do kinh tế, chính trị nên chỉ 7 vị vua được xây dựng lăng[28] đó là: Lăng Gia Long, Lăng Minh Mạng, Lăng Thiệu Trị, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức, Lăng Khải Định. Mỗi lăng được xây dựng với một kiểu kiến trúc khác nhau, tùy vào hoàn cảnh đất nước thời kỳ các vị vua lúc còn tại vị. Trong đó, hoành tráng nhất có lẽ là lăng Gia Long[29] được xây dựng trên một quần sơn gồm 42 quả đồi lớn nhỏ, trên tổng diện tích khoảng 28 km2 với kiến trúc truyền thống Việt Nam[30][31]. Độc đáo nhất là lăng vua Khải Định là sự kết hợp kiến trúc Đông Tây Kim Cổ với các bức tranh ghép sành sứ độc đáo và không tuân theo bất cứ trường phái kiến trúc nào[32]. Do những điều kiện lịch sử, lăng Dục Đức là lăng tẩm duy nhất chôn cất và thờ tự 3 vua Dục Đức, Thành TháiDuy Tân.

Hiện nay, qua thời gian các khu di tích này đều đã xuống cấp khá nhiều, gần đây đã bắt đầu có những kế hoạch để trùng tu.[33]

Các di tích khác

Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình

Trong Quần thể di tích Cố đô Huế còn có một loạt công trình khác phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau như: phục vụ giáo dục (Văn Miếu, Võ Miếu, Quốc Tử Giám, Trường Thi...); ngoại giao (Thượng Bạc Viện); quân sự (Trấn Hải Thành) và giải trí (Hổ Quyền). Ngoài các công trình trên, các cơ sở tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong chính sách của triều Nguyễn với rất nhiều chùa quán, đền miếu được xây dựng trùng tu như: bốn ngôi quốc tự Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên và quốc quán Linh Hựu cùng với nhiều chùa chiến, đền miếu nhỏ khác. Việc này đã hình thành thiền kinh của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ 19[6].